Saphir là một biến loại của corindon với nhiều màu sắc khác nhau trừ màu đỏ. Saphir được dùng làm đá quý hoặc được dùng trong nhiều ứng dụng khoa học công nghệ.
GIỚI THIỆU VỀ SAPHIR
Tên Saphir (Tiếng Hi Lạp nghĩa làm màu lam) được dùng cho nhiều loại đá. Thời cổ xưa tên Saphir được miêu tả cho loại đá ngày nay là lapis lazuli. Vào những năm 1800 đã ghi nhận rằng Ruby và saphir là hai biến loại đá quý của corindon. Đầu tiên chỉ có màu lam được gọi là saphir, và corindon những màu khác (trừ màu đỏ) được gọi theo tên đặc biệt hoặc tên sai nhưng “peridot phương đông” cho biến loại màu lục, hay “Topaz phương đông” cho loại màu vàng.
Ngày nay đá quý corindon có chất lượng của tất cả các màu trừ màu đỏ đều được gọi là saphir. Biến loại màu đỏ gọi là ruby. Các màu khác nhau của saphir được gọi theo màu của chúng ví dụ như saphir lục, saphir vàng… Saphir không màu thì được gọi là leuko saphir (Tiếng hi lạp leuko nghĩa là màu trắng), saphir hơi đỏ đến vàng da cam được gọi là padparadschah.
SINH NHẬT & NGÀY KỶ NIỆM
Saphir là ngày sinh của tháng 9 và là viên ngọc quý của cho ngày kỷ niệm lần thứ 5 và lần thứ 45
NGUYÊN NHÂN TẠO MÀU
Nguyên nhân tạo màu của saphir lam là Fe và Ti, màu tím là V. Hàm lượng nhỏ Fe là kết quả trong viên đá màu vàng và lục, Cr màu hồng, Fe và V màu cam. Màu được kỳ vọng nhất là màu lam hero tinh khiết. Trong ánh sáng nhân tạo, một vài saphir có thể xuất hiện màu mực, hoặc lam đen.
NHỮNG VIÊN SAPHIR HOÀNG GIA
Saphir được gắn trên những chiếc nhẫn đính hôn nổi tiếng nhất thế giới của công nương Kate Middleton và Công nương Diana.
CÁC MỎ SAPHIR TRÊN THẾ GIỚI
Ngày nay, mỏ saphir có giá trị kinh tế qua trọng ở Australia, Burma (Myanmar), Sri Lanka và Thái Lan, Kashmir (Ấn Độ), Montana (Mỹ). Ngoài ra cũng tìm thấy các mỏ ở Brazil, Trung Quốc, Campuchia, Kenya, Malawi, Nigeria, Zimbabwe, Tanzania, Việt Nam.
Mỏ ở Austrailia được phát hiện năm 1870. Đá chủ là basalt, Saphir được rửa từ những mảnh vụn phong hóa. Chất lượng luôn tốt nhất. Dưới ánh sáng nhân tạo, viên đá lam đậm xuất hiện màu mực, lục lam, gần đen, chất lượng hơn có màu lục. Những viên saphir sao màu đen gần nhất được tìm thấy ở Queensland. Các khoáng vật đi cùng là pyrope, thạch anh, topaz, tourmalin, zircon. Năm 1918, những viên màu lam chất lượng tốt được tìm thấy ở New south wales, và gần đây, những mỏ này bắt đầu được khai thác.
Các mỏ bồi tích trên Burma gần Mogok được khai thác bằng phương pháp hiện đại, cùng trường với ruby, spinel. Đá chủ là pegmatite. Năm 1966, một viên saphir sao to nhất được tìm thấy ở đây, tinh thể nặng 63000ct.
Saphir được tìm thấy ở Srilanka từ thời cổ xưa. Những mỏ ở phía tây nam của đảo thược vùng Ratnapura. Đá gốc là đá vôi dolomit, nó cũng gần với đá granit gneiss. Có những viên sỏi sa khoảng dày 30 – 60 cm, được khai thác từ độ sâu 1 – 10m. Saphir thường có màu lam nhạt, phớt tím. Cũng có màu vàng, và các loại da cam, cũng như lục, hồng, nau, gần như không màu, saphir sao, mắt mèo. Khoáng vật đi kèm là apatit, epidot, granat, thạch anh, ruby, spinel, topaz, tourmaline, zircon.
2 mỏ saphir ở Thái Lan: Chantabun, đông nam băng cốc, một ở Kanchanaburi, tây bắc băng cốc. Đá chủ là đá hoa hoặc bazalt, sa khoáng và các mỏ tích tụ được hình thành bởi phong hóa. Những viên đá có giá trị cao với màu sắc khác nhau, có cả saphir sao. Saphir lam màu sẫm, nhưng có xu hướng lục lam nhẹ.
THÔNG TIN
- Khoáng vật: Corundum
- Thành phần hóa học: Al 2 O 3
- Màu sắc: Tất cả các màu trừ màu đỏ
- Chiết suất : 1.762 đến 1.770
- Lưỡng chiết suất: 0,008 đến 0,010
- Tỷ trọng: 4,00
- Độ cứng Mohs: 9
MÀU SẮC
Saphir có nhiều màu sắc. Màu được ưa thích và tiêu biểu nhất là màu lam.
ĐỘ TINH KHIẾT
Saphir có độ tinh khiết từ trong suốt đến đục
CẮT
Saphir được chế tác theo nhiều hình dáng khác nhau: oval, tròn, tượng Phật….
TRỌNG LƯỢNG
Với nhiều hình dạng khác nhau, Saphir có trọng lượng lớn và dễ tìm hơn viên ruby cùng trọng lượng như vậy.